bình luận bản án hình sự
Ông Tất Thành Cang lãnh thêm bản án 6 năm tù vì bán rẻ đất đai. Ngày 19.10, TAND TP.HCM đã tuyên phạt bị cáo Tất Thành Cang 6 năm tù vì tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Tổng hợp hình phạt từ vụ án Sadeco trước đó
(THPL) – Trước việc UBND TP Thanh Hóa có Công văn báo cáo tình hình thực hiện Dự án hệ thống tiêu úng Đông Sơn đang bị chậm tiến độ và có đề nghị cập nhật kinh phí của 4 dự án vào dự án tiêu úng Đông Sơn, ngày 6/10 UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành văn bản không thống nhất việc đề nghị cập nhật toàn
Ngày 18-10, Công an tỉnh Thái Bình cho biết Cơ quan CSĐT Công an huyện Vũ Thư đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với ba người để điều tra về tội "bắt, giữ người trái pháp luật".
bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp hỒ chÍ minh khoa luẬt dÂn sỰ tiỂu luẬn kẾt thÚc hỌc phẦn mÔn luẬt tỐ tỤng dÂn sỰ bÌnh luẬn bẢn Án, quyẾt ĐỊnh cỦa tÒa Án sỐ 3562018kdtm st ngÀy 21 12 2018 vỀ “tranh chẤp hỢp ĐỒng mua bÁn hÀng hÓa, ĐÒi lẠi tÀi sẢn”
Tiếp theo các cuốn “Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015…”, tác giả Đinh Văn Quế – Thạc sỹ Luật học, nguyên Thành viên Hội đồng Thẩm phán, Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc
modifikasi beat fi hitam simple tapi keren. – Điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.– Khoản 2 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng khoản 2 Điều 123 BLHS 2015.– Điều 20 BLHS 1999 tương ứng Điều 17 BLHS 2015.2. Sự cần thiết phải công bố án lệHiện nay, nhận thức về các quy định của Pháp luật có liên quan nêu trên còn khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử thiếu thống nhất. Đặc biệt, nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong các vụ án có đồng phạm. Có quan điểm cho rằng, trong vụ án có đồng phạm thì người thực hành phạm tội gì, theo khung hình phạt nào thì các đồng phạm khác cũng phải bị truy tố, xét xử theo tội danh và khung hình phạt điểm trên là không phù hợp với quy định của pháp luật về đồng phạm đồng phạm giản đơn và đồng phạm có tổ chức. Bởi lẽ, mỗi người đồng phạm gắn với những tình tiết định khung riêng, nên không thể buộc đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung hình phạt riêng cho người thực hiện tội phạm, trừ trường hợp những người đồng phạm có chung tình tiết định lệ hình sự số 17 ra đời là sự giải thích thống nhất để áp dụng về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án có đồng phạm. Do vậy án lệ này ra đời là cần Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ ánTheo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Sau khi chứng kiến việc bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Dương Quang Q đánh, Nguyễn Văn H là người trực tiếp gọi điện báo cho Trần Quang V biết việc ông H bị đánh. Trong lúc ăn nhậu cùng V và Phạm Nhật T vào tối ngày 19-01-2015, biết V và T có ý định đi đánh ông Q để trả thù , H nói “Ba bị đánh thương lắm, chừ còn đau”, làm củng cố ý thức, quyết tâm của V trong việc đi đánh ông Q. H cũng là người chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của ông Q cho V và T biết để V và T có thể thực hiện hành vi đánh ông Q. Khi nghe V và T bàn bạc kế hoạch đi đánh ông Q, H không can ngăn mà còn nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”, thể hiện sự thống nhất ý chí về việc đánh ông Q. Sau đó, H bỏ về trước. Thực tế, Trần Quang V đã dùng mã tấu chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Sau khi chém ông Q, V đã gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại cho H để hỏi về thương tích của ông Q. Mặc dù, H không biết trước việc V dùng mã tấu chém liên tiếp vào những vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q, có thể tước đoạt tính mạng của ông Q nhưng H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người” là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999.* Tình huống án lệ“…Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999”.4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệVụ án hình sự cụ thể được nêu trong án lệ số 17/2018/AL, V và T là người thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết “có tính chất côn đồ”, nên chỉ có V và T xét xử theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS là đúng. Còn đối với H là người đồng phạm giúp sức, hành vi giúp sức của H không có tình tiết có tính chất côn đồ, cũng không có tình tiết định khung nào khác tại khoản 1 Điều 93 BLHS. Do đó, đối với H phải áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS để xét xử mới đúng pháp từ ngày án lệ có hiệu lực 03/12/2018, các vụ án hình sự về tội giết người mà có đồng phạm với tình tiết tương tự như vậy thì phải áp dụng ALHS số 17/2018 để xét số 17/2018 góp phần thống nhất nhận thức về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của các đồng phạm trong vụ án hình sự. Đồng phạm phải chịu TNHS về một tội phạm mà họ thống nhất thực hiện, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp họ đều phải chịu TNHS theo tình tiết định khung riêng của người thực là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
TÓM TẮTNỘI DUNG BẢN ÁNBÌNH LUẬN BẢN ÁN1. Dẫn nhập2. Hoàn cảnh phát sinh tranh chấp[7]3. Áp dụng pháp luật4. Vấn đề pháp lý phát sinh5. Hoàn cảnh tương tự trong tương laiCHÚ THÍCH Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại Tác giả TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn Vụ án được bình luận trong bài viết là một ví dụ điển hình cho việc giải quyết hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại cũng như điều kiện để doanh nghiệp có thể dùng tên địa danh bảo hộ cho nhãn hiệu của mình và được xem xét với nhiều vấn đề pháp lý phát sinh dưới góc độ pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Cụ thể, các vấn đề pháp lý sau đây đã được phân tích trong bài viết i tên của cơ sở kinh doanh, trong trường hợp này là tên Nhà máy xi măng Trung Sơn trong Dự án thành lập Nhà máy có được pháp luật bảo hộ là tên thương mại không?; ii việc sử dụng tên địa danh, cụ thể là tên xã Trung Sơn làm dấu hiệu trong nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam” có thực sự không đáp ứng điều kiện bảo hộ không? iii sự tuân thủ pháp luật tố tụng hành chính trong trường hợp căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được đưa ra bởi Cục Sở hữu trí tuệ trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 8/12/2012 đối tượng của vụ kiện là nhãn hiệu được bảo hộ có chứa dấu hiệu trùng với thành phần phân biệt trong tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn nhưng Toà án khi tuyên sửa bản án sơ thẩm chỉ dựa trên căn cứ nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ vì không có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Xem thêm bài viết về “Bình luận bản án” Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo Bình luận bản án – Hành vi xâm phạm quyền tác giả – ThS. Nguyễn Phương Thảo Bình luận bản án Ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại Bình luận bản án Điều kiện từ chối đăng ký, sử dụng tên miền – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng Bình luận bản án Sính lễ trong pháp luật Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Lê Thị Diễm Phương NỘI DUNG BẢN ÁN Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013 Trích XÉT THẤY Về thủ tục tố tụng Ngày 16/5/2007, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Cục SHTT – Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 5716/QĐ-SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá GCN ĐKNH số 82099 cho sản phẩm xi măng của Công ty Xuân Mai. Ngày 08/12/2010, Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc huỷ bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 nêu trên. Không đồng ý, Công ty Xuân Mai đã khiếu nại. Ngày 13/5/2011, Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 904/QĐ-SHTT giải quyết khiếu nại với nội dung không chấp nhận khiếu nại của Công ty Xuân Mai. Ngày 14/7/2011, Công ty Xuân Mai khởi kiện yêu cầu Toà án hủy Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 về việc hủy bỏ một phần hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 82099 và Quyết định số 904/QĐ-SHTT ngày 13/5/2011 của Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN về việc giải quyết khiếu nại. Như vậy, việc Công ty Xuân Mai đã khiếu nại và khởi kiện đúng thủ tục pháp luật quy định và Toà án nhân dân tỉnh Hòa Bình thụ lý, giải quyết vụ án hành chính là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Về nội dung + Việc áp dụng pháp luật để hủy bỏ văn bằng bảo hộ Tại khoản 3 Điều 220 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 Luật SHTT quy định “Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bản bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ thì áp dụng quy định pháp luật có hiệu lực đối với việc xét cấp văn bằng bảo hộ đó. Quy định này cũng được áp dụng với Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa ban hành theo quy dịnh pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực;cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí chỉ dẫn địa lý đối với các tên gọi xuất xứ hàng hóa.” Căn cứ vào quy định nêu trên, thấy rằng việc Cục SHTT đã áp dụng Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 để xét cấp cho Công ty Xuân Mai Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 82099 tại Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 và khi hủy bỏ hiệu lực của GCN ĐKNH số 82099 cũng phải áp dụng Nghị định này. Tại khoản 1 Điều 29 Nghị định 63/CP quy định “Bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu công nghiệp hủy bỏ hiệu lực một Văn bằng bảo hộ với lý do Văn bằng bảo hộ đó được cấp không phù hợp với các quy định của pháp luật như quy định tại khoản 2 Điều này…”. Theo quy định trên thì Công ty Bình Minh có quyền đề nghị Cục SHTT hủy bỏ GCN ĐKNH số 82099 đã cấp cho Công ty Xuân Mai. + Về thời hiệu nộp đơn yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ Nghị định số 63/CP nêu trên không quy định về thời hiệu nộp đơn yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Do đó Công ty Bình Minh có quyền nộp đơn vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn có hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Theo văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa số 82099 của Công ty Xuân Mai thì Văn bằng bảo hộ này có hiệu lực 10 năm kể từ ngày 04/7/2005. Ngày 01/9/2010, Công ty Bình Minh gửi Công văn số 123/CV-CTBT đến Cục SHTT đề nghị hủy bỏ nhãn hiệu số 82099 do Cục SHTT cấp cho Công ty Xuân Mai; ngày 08/9/2010, Cục SHTT nhận được đơn này. Như vậy, Công ty Bình Minh nộp đơn yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu hàng hóa của công ty Xuân Mai là trong thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ. + Xét nội dung Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục trưởng Cục SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNHsố 82099 đã cấp cho Công ty Xuân Mai. Sau khi xem xét đơn của Công ty Bình Minh yêu cầu Cục trưởng Cục SHTT hủy bỏ thành phần “Trung Sơn” trong nhãn hiệu hàng hóa số 82099 của Công ty Xuân Mai với lý do là thuộc trường hợp “đối tượng được bảo hộ không đáp ứng đúng tiêu chuẩn bảo hộ” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 29 Nghị định số 63/CP; ngày 08/12/2010 Cục trưởng Cục SHTT ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 cấp cho Công ty Xuân Mai theo Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục trưởng Cục SHTT. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng Tại điểm g khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP sửa đổi quy định về các dấu hiệu không được Nhà nước bảo hộ với danh nghĩa là một nhãn hiệu hàng hóa như sau “dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. Theo quy định này, thì Đơn xin cấp GCN ĐKNH của Công ty Xuân Mai phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng tên gọi địa danh “Trung Sơn” trong nhãn hiệu hàng hóa của mình thì nhãn hiệu này mới được Nhà nước bảo hộ. Nhưng trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của Công ty Xuân Mai không có tài liệu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép Công ty Xuân Mai được sử dụng địa danh Trung Sơn trên nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ. Do vậy, Cục trưởng Cục SHTT ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 cấp cho Công ty Xuân Mai theo Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục SHTT là đúng quy định nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án đã không kiểm tra đầy đủ văn bản pháp luật có liên quan nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Xuân Mai là chưa khách quan, chưa đúng với quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao để sửa bản án sơ thẩm. …… Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 205 Luật Tố tụng hành chính; QUYẾT ĐỊNH – Áp dụng khoản 3 Điều 220 Luật Sở hữu trí tuệ; áp dụng khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/NĐ-CP ngày 24/10/1996 đã sửa đổi theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001. Chấp nhận kháng cáo của Cục SHTT và kháng cáo của Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh. Sửa bản án sơ thẩm như sau Bác đơn khởi kiện của Công ty TNHH Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 của Cục trưởng Cục SHTTvề việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNHsố 82099 cấp cho Công ty TNHH Xuân Mai. ……. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Xem thêm bài viết về “Nhãn hiệu” Xung đột quyền trong bảo hộ Nhãn hiệu và Tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn – ThS. Lê Xuân Lộc & ThS. Mai Duy Linh Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo Những thay đổi quan trọng trong quy định pháp luật của liên minh Châu Âu về nhãn hiệu – TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga BÌNH LUẬN BẢN ÁN 1. Dẫn nhập Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau[1]. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ SHTT Việt Nam, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện i là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; ii có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác; iii không thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 73 và Điều 74 Luật SHTT[2]. Quyền sở hữu công nghiệp SHCN đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục SHTT[3]. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh[4]. Để được pháp luật SHTT bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại của tổ chức, cá nhân, cần phải đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật SHTT, bao gồm i chứa thành phần tên riêng để phân biệt; ii không trùng và tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước đó; iii không trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã sử dụng trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Quyền SHCN đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực lãnh thổ và lĩnh vực kinh doanh mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Thường thì tên của doanh nghiệp trong đăng ký kinh doanh cũng chính là tên thương mại của doanh nghiệp. Nhãn hiệu và tên thương mại là các đối tượng được bảo hộ quyền SHCN với các quy định khác nhau. Chức năng cơ bản của nhãn hiệu là nhằm phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau trong khi đó chức năng cơ bản của tên thương mại là nhằm phân biệt chủ thể kinh doanh. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp đã lấy tên địa danh làm dấu hiệu để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và/hoặc yếu tố cấu thành tên thương mại. Và vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều trường hợp tên của một địa danh được các doanh nghiệp khác nhau cùng sử dụng làm tên thương mại của doanh nghiệp và/hoặc nhãn hiệu cho hàng hoá, dịch vụ của mình. Trong những trường hợp này có thể phát sinh các vấn đề pháp lý như i hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại[5]; iiđiều kiện để doanh nghiệp có thể dùng tên địa danh bảo hộ cho nhãn hiệu của với vấn đề pháp lý thứ nhất, pháp luật SHTT Việt Nam đã có những quy định nhằm ngăn ngừa và giải quyết hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại. Cụ thể, quyền SHCN có thể bị hủy bỏ hiệu lực đối với các quyền được xác lập theo văn bằng bảo hộ hoặc bị cấm sử dụng đối với các quyền không cần xác lập trên cơ sở văn bằng bảo hộ nếu xung đột với quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác được xác lập trước[6]. Đối với vấn đề thứ hai, nhãn hiệu có thể bị hủy bỏ nếu không đáp ứng điều kiện bảo hộ. Vụ án được bình luận dưới đây là một ví dụ điển hình về giải quyết xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu, cũng như vấn đề sử dụng tên địa danh làm dấu hiệu cho nhãn hiệu và rất đáng để xem xét với nhiều vấn đề pháp lý phát sinh từ góc độ pháp luật nội dung đến pháp luật tố tụng. 2. Hoàn cảnh phát sinh tranh chấp[7] Ngày 27/12/2002 Công ty TNHH Xuân Mai Công ty Xuân Mai được UBND tỉnh Hoà Bình cho phép xây dựng nhà máy sản xuất xi măng tại xã Thành Lập, Huyện Lương Sơn, Hoà Bình. Ngày 4/7/2005 Công ty Xuân Mai nộp đơn đăng ký nhãn hiệu và ngày 16/5/2007, tại quyết định số 5716/QĐ-SHTT, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam Cục SHTT đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” cho sản phẩm xi măng của Công ty. Ngày 8/12/2010 Cục SHTT ra quyết định số 2470/QĐ- SHTT hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 huỷ bỏ cụm từ “Trung Sơn” với lý do cụm từ Trung Sơn trùng với thành phần phân biệt trong tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Cổ phần tập đoàn Xây dựng và Du lịch Bình Minh Công ty Bình Minh, là tên thương mại của Công ty Bình Minh được xác lập trước ngày nhãn hiệu theo GCN ĐKNH số 82099 nộp đơn đăng ký. Công ty Xuân Mai khiếu nại quyết định số 2470/QĐ- SHTT. Ngày 13/5/2011, Cục SHTT đã có Quyết định giải quyết khiếu nại số 904/QĐ-SHTT với nội dung không chấp nhận khiếu nại của công ty Xuân Mai. Công ty Xuân Mai không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục SHTT nên ngày 14/7/2011 đã khởi kiện tại Toà án yêu cầu hủy bỏ quyết định số 2470/QĐ- SHTT. Tại phiên tòa sơ thẩm, người bị khởi kiện, Cục SHTT trình bày hai lý do làm căn cứ cho Quyết định số 2470/QĐ- SHTT i Tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của công ty Bình Minh. Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh là dự án có quy mô lớn, được Chính phủ, UBND tỉnh Hoà Bình phê duyệt, cấp phép theo các trình tự, thủ tục từ nhiều năm. Công ty Xuân Mai đăng ký nhãn hiệu Trung Sơn cho sản phẩm xi măng sau khi Chính phủ và các cấp có thẩm quyền đã có các quyết định liên quan đến tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh; ii Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của Công ty. Công ty Xuân Mai cũng chưa chứng minh được dấu hiệu Trung Sơn đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi cho cho sản phẩm xi măng và không có tài liệu nào thể hiện dự án Nhà máy xi măng Hoà Bình của Công ty Xuân Mai mang tên Trung Sơn. Việc cấp GCN ĐKNH số 82099 cho Công ty Xuân Mai có cụm từ “Trung Sơn” sẽ gây nhầm lẫn với hoạt động của Công ty Bình Minh nếu không được ngăn chặn sẽ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và không phù hợp với quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 6 Nghị định số 63/CP[8]. Công ty Bình Minh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày, trong quá trình làm thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm, Công ty phát hiện trên vỏ bao xi măng của Công ty Xuân Mai có in chữ “Trung Sơn” trùng với tên Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh nên ngày 01/9/2010 bằng Công văn số 123/CV-CTBT gửi Cục SHTT đề nghị hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 của Công ty Xuân Mai. Công ty Bình Minh cho rằng, Công ty Xuân Mai sử dụng nhãn hiệu “Trung Sơn” cho sản phẩm xi măng trùng với tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Bình Minh đã được Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh Hoà bình cấp phép trước khi Công ty Xuân Mai nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Cụ thể, Dự án này đã được UBND tỉnh Hoà Bình cấp quyết định cho phép thực hiện từ ngày 13/8/2003. Ngày 15/11/2004 UBND tỉnh Hoà Bình ban hành Quyết định số 2269/QĐ-UBthu hồi m2 đất. Ngày 06/4/2006, Thủ tướng Chính phủ, bằng văn bản số 535/TTg-CN cho phép đầu tư Nhà máy xi măng Trung Sơn công suất tấn Clanhke tại huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Trong quá trình triển khai dự án, Công ty Bình Minh đã có nhiều hoạt động đầu tư. Công ty Xuân Mai có trụ sở gần Công ty Bình Minh nên biết dự án này nhưng vẫn đăng ký Nhãn hiệu trên là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Bình Minh. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/2012/HCST ngày 24/02/2012 của TAND tỉnh Hoà Bình, căn cứ vào mục 5, mục 6 Điều 88, Điều 90, điều 91 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Xuân Mai, hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 về việc hủy bỏ hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 và Quyết định số 904/QĐ-SHTT ngày 13/5/2011. Ngày 29/2/2012 Công ty Bình Minh kháng cáo toàn bộ bản án. Ngày 06/3/2012, Cục SHTT kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 09/4/2013, Toà Phúc thẩm TANDTC đã tuyên bản án với nội dung bác đơn khởi kiện của Công ty Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 như đã được trình bày ở trên[9]. 3. Áp dụng pháp luật Vụ án trên được xét xử sơ thẩm vào ngày 24/02/1012 và xét xử phúc thẩm vào ngày 09/4/2013, là thời điểm Luật SHTT, BLDS năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định của BLDS và Luật SHTT về SHTT đã có hiệu lực nhưng trong vụ án này, Tòa án đã áp dụng quy định của BLDS năm 1995 và Nghị định 63/CP quy định chi tiết về SHCN để giải quyết. Cụ thể, trong bản án phúc thẩm, Tòa án đã áp dụng điều 29 khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP. Việc áp dụng pháp luật như vậy là phù hợp vì văn bằng bảo hộ nhãn hiệu trên được cấp căn cứ theo BLDS năm 1995 và Nghị định số 63/CP. Thực tế, Tòa phúc thẩm cũng đã lý giải vấn đề này trong bản án của mình Tại khoản 3 Điều 220 Luật SHTT quy định “Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bản bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ căn cứ huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ thì áp dụng quy định pháp luật có hiệu lực đối với việc xét cấp văn bằng bảo hộ đó”. Trong vụ án này, vấn đề tranh chấp liên quan đến căn cứ huỷ bỏ một phần hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nên phải áp dụng các văn bản pháp luật có hiệu lực vào thời điểm xem xét cấp văn bằng bảo hộ đó, cụ thể là BLDS năm 1995 và Nghị định 63/CP quy định chi tiết về SHCN. 4. Vấn đề pháp lý phát sinh Lý do huỷ bỏ cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu đã được bảo hộ Lý do mà Công ty Bình Minh yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” của Công ty Xuân Mai là cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu này trùng với tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Bình Minh đã được Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh Hòa Bình cấp phép trước khi Công ty Xuân Mai nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nêu trên. Lý do để Cục SHTT ra Quyết định hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 nêu trên là cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu nàytrùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Như vậy, Cục SHTT và Công ty Bình Minh đều cho rằng cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu đã được bảo hộ của Công ty Xuân Mai trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Vì vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu nêu trên sẽ xung đột quyền với việc bảo hộ tên thương mại của Công ty Bình Minh. Tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT và Công ty Bình Minh đều nhấn mạnh tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của công ty Bình Minh, Công ty Xuân Mai đăng ký nhãn hiệu Trung Sơn cho sản phẩm xi măng sau khi Chính phủ và các cấp có thẩm quyền đã có các quyết định liên quan đến tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của công ty Bình Minh. Ngoài ra, đại diện của Cục SHTT còn đưa ra thêm một lý do khác Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của Công ty. Hội đồng xét xử tại phiên tòa phúc thẩm cũng nhận định tên dự án “Nhà máy sản xuất xi măng Trung Sơn” đã được công ty Bình Minh sử dụng, là tên của Nhà máy và dùng để chỉ sản phẩm trong tương lai. Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại của Nhà máy sản xuất xi măng trong tương lai[10]. Các lập luận này đã cho thấy sự tồn tại hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu và về nguyên tắc, đối tượng nào xác lập quyền sau sẽ bị hủy bỏ hoặc cấm sử dụng[11]. Tuy nhiên, trong bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ dựa vào lý do là Công ty Xuân Mai không nhận được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền đối với việc sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm nhãn hiệu để tuyên sửa bản án sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của Công ty Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số2470/QĐ-SHTT ngày 8/12/2012 của Cục trưởng Cục SHTT[12]. Như vậy, ở đây nảy sinh một số vấn đề pháp lý i tên Nhà máy xi măng Trung Sơn trong Dự án nêu trên có được pháp luật bảo hộ là tên thương mại không? Nếu câu trả lời là có thì ở đây đã có hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu nêu trên và tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn vì cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu nêu trên có thể làm người tiêu dùng không chỉ liên tưởng đến tên địa danh Trung Sơn mà còn liên tưởng đến cơ sở kinh doanh, gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm sản phẩm do Nhà máy xi măng Trung Sơn sản xuất. Trong trường hợp này, một trong hai đối tượng trên sẽ không được pháp luật bảo hộ, phụ thuộc vào việc quyền SHCN đối với đối tượng nào được xác lập trước. Để trả lời câu hỏi này cần xác định được điều kiện để tên thương mại được bảo hộ, thời điểm bảo hộ tên thương mại; ii Việc sử dụng tên địa danh, cụ thể trong trường hợp này là tên xã Trung Sơn làm dấu hiệu trong nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” có cần sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền hay không? Điều kiện để tên địa danh được sử dụng làm nhãn hiệu và được pháp luật bảo hộ là gì; iii Nếu căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được đưa ra bởi Cục SHTT trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT là nhãn hiệu được bảo hộ có chứa dấu hiệu trùng với thành phần phân biệt trong tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn nhưng Toà án khi tuyên bản án dựa trên căn cứ nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ vì không có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền thì bản án đó có thuyết phục hay không? Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề nêu trên. Điều kiện để tên thương mại được bảo hộ, thời điểm bảo hộ tên thương mại Như đã nêu ở trên, trong vụ án này, vấn đề pháp lý hết sức thú vị được đặt ra là thời điểm bảo hộ tên thương mại là thời điểm nào? Liệu tên doanh nghiệp hình thành trong tương lai tên doanh nghiệp trong dự án thành lập doanh nghiệp có thể được pháp luật bảo hộ là tên thương mại? Chủ đầu tư có quyền yêu cầu bảo vệ tên thương mại của doanh nghiệp hình thành trong tương lai khi có tranh chấp? Theo quy định tại Điều 76 Luật SHTT, điều kiện chung để tên thương mại được bảo hộ là tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khi đáp ứng điều kiện bảo hộ thì quyền SHCN đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký[13]. Điều 162 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định “Phạm vi quyền đối với tên thương mại được xác định theo phạm vi bảo hộ tên thương mại, gồm tên thương mại, lĩnh vực kinh doanh và lãnh thổ kinh doanh trong đó tên thương mại được chủ thể mang tên thương mại sử dụng một cách hợp pháp. Việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng tên gọi đó mà chỉ là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp”. Với các quy định trên, thời điểm tên thương mại được bảo hộ là thời điểm được chủ thể mang tên thương mại đó sử dụng hợp pháp trên thực tế. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, để được pháp luật bảo hộ, bên cạnh các điều kiện được quy định tại Điều 76 và Điều 78 Luật SHTT, tên thương mại trước hết phải là tên của cơ sở kinh doanh, có nghĩa là cơ sở kinh doanh đó phải được hình thành và được đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Mặc dù việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng tên gọi đó nhưng đó là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp. Do đó trong trường hợp tranh chấp cụ thể này, Nhà máy xi măng Trung Sơn chưa được thành lập, chưa được đăng ký kinh doanh do dó chưa thể phát sinh quyền SHCN đối với tên thương mại là tên của nhà máy. Một điều kiện quan trọng khác để tên thương mại được bảo hộ là phải được chính chủ thể mang tên thương mại đó sử dụng một cách hợp pháp. Vì xét về bản chất, chức năng của tên thương mại là nhằm phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại với chủ thể kinh doanh khác trong cùng khu vực kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh. Tại phiên tòa phúc thẩm, tòa án nhận định tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn đã được công ty Bình Minh sử dụng trên thực tế. Vấn đề đặt ra, tiêu chí nào để xác định tên thương mại đã được sử dụng hợp pháp trên thực tế? Điều 124 khoản 6 Luật SHTT Việt Nam quy định sử dụng tên thương mại “là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo”. Căn cứ vào Điều 123 Luật SHTT, các hành vi sử dụng trên phải do chủ sở hữu tên thương mại hoặc chủ thể khác được chủ sở hữu tên thương mại cho phép thực hiện. Trong vụ án trên, Cục SHTT và tòa án lập luận tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn đã được Công ty Bình Minh sử dụng trên thực tế trong hoạt đầu tư như giải phóng mặt bằng, thu hồi đất… Tuy nhiên, ở đây cần làm rõ là các giao dịch trên do Công ty Bình Minh thực hiện với tư cách là chủ đầu tư chứ không phải là do Nhà máy xi măng Trung Sơn tiến hành. Như vậy, Công ty Bình Minh là chủ đầu tư nhưng không phải là chủ sở hữu đối với tên thương mại “Nhà máy xi măng Trung Sơn”. Với cách lập luận này, tên của “Nhà máy xi măng Trung Sơn” chưa được doanh nghiệp mang tên thương mại đó sử dụng trên thực tế do đó chưa làm phát sinh quyền SHCN đối với tên thương mại này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong trường hợp này, tên nhà máy xi măng Trung Sơn mặc dù được công ty Bình Minh sử dụng trong các hoạt động đầu tư nhưng không nên xem việc sử dụng đó là điều kiện để bảo hộ tên thương mại theo tinh thần Điều 123 và Điều 124 Luật SHTT. Như vậy, tên doanh nghiệp trong dự án thành lập doanh nghiệp chưa thể được pháp luật SHTT bảo hộ là tên thương mại. Vì vậy, lý do hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 vì trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh mà Cục SHTT đưa ra là không thuyết phục. Điều kiện để tên địa danh được sử dụng làm nhãn hiệu Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT Việt Nam đều khẳng định, Công ty Xuân Mai không được cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng tên địa danh “Trung Sơn” làm tên nhà máy hay cho sản phẩm xi măng. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, căn cứ vào điểm g, khoản 2 điều 6 Nghị định 63/CP, nhận định “Đơn xin cấp GCN ĐKNH của Công ty Xuân Mai phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng tên địa danh “Trung Sơn” trong nhãn hiệu của mình thì nhãn hiệu này mới được Nhà nước bảo hộ”. Vậy câu hỏi đặt ra, nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” của công ty Xuân Mai có thực sự không đáp ứng điều kiện bảo hộ hay không? Điều 29 Nghị định 63/CP quy định rất chung chung về các trường hợp hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ các đối tượng SHCN, trong đó điểm d khoản 2 Điều 29 quy định một trong những lý do hủy bỏ là “Đối tượng được bảo hộ không đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ”. Điểm g, khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP quy định không bảo hộ nhãn hiệu “Dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. Thông tư số 3055 cũng yêu cầu trong trường hợp dấu hiệu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu được quy định trong khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP thì trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu phải có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền[14]. Tuy nhiên, không có sự giải thích từ quy định của pháp luật về việc sử dụng tên địa danh trong trường hợp nêu trên tên địa danh yêu cầu sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền là tên nước, tên vùng lãnh thổ, tên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hay bao gồm cả tên xã, huyện? Tên địa danh có cần gắn với đặc tính đặc thù của sản phẩm đặc sản địa phương hay không? Trường hợp nào việc sử dụng tên địa danh làm nhãn hiệu cần được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền? Trước khi Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn Luật SHTT có hiệu lực, những vấn đề trên chưa được pháp luật quy định cụ thể. Điều này đã tạo cho cơ quan có thẩm quyền quyền hạn rất lớn trong việc áp dụng pháp luật khi xác định trường hợp nào tên địa danh khi sử dụng làm nhãn hiệu cần được cơ quan có thẩm quyền cho phép, trường hợp nào không cần sự cho phép. Nhằm thống nhất vấn đề này, Cục SHTT đã có một số quy định hướng dẫn trong Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, trong đó quy định tên địa lý hành chính có thể được chấp nhận làm nhãn hiệu thông thường nếu “dấu hiệu chứa tên địa lý đi kèm với các thành phần phân biệt khác”[15]. Ngoài ra, Quy chế này cũng quy định không chấp nhận làm nhãn hiệu thông thường dấu hiệu chứa duy nhất tên địa lý hoặc phần tên địa lý nổi bật hơn các thành phần khác. Tên địa lý được đề cập ở đây thông thường là từ cấp huyện trở lên, có thể ở cấp thấp hơn như cấp xã, làng… nếu các tên địa lý cấp thấp hơn có danh tiếng cho sản phẩm, dịch vụ tương ứng[16]. Trong trường hợp nêu trên, Trung Sơn là tên địa danh cấp xã, sản phẩm mang nhãn hiệu này là xi măng, không phải là đặc sản địa phương do đó không cần thiết sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Khi cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” cho Công ty Xuân Mai, Cục SHTT phải biết sự tồn tại của các quy định trong Điều 6 Nghị định 63/CP và các quy định trong Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu của Cục SHTT nhưng GCN ĐKNH cho nhãn hiệu trên vẫn được cấp. Điều này cho thấy, trong trường hợp này, địa danh là tên xã là không cần thiết phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Ngay trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT huỷ bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099, Cục SHTT cũng không đưa vấn đề này ra như là căn cứ hủy bỏ nhãn hiệu mà vấn đề này chỉ được đưa ra tại phiên tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Với các lập luận nêu trên, có thể thấy rằng, căn cứ hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 là nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ do không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đăng ký là không thuyết phục. Về căn cứ sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm Như chúng tôi đã phân tích ở trên, trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT, căn cứ hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” là phần chữ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu này trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của Công ty Bình Minh, được xác lập trước ngày đăng ký nhãn hiệu trên. Trong căn cứ hủy bỏ một phần GCN ĐKNH được đưa ra trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT của Cục SHTT và trong Công văn số 123/CV-CTBT của công ty Bình Minh yêu cầu hủy bỏ một phần GCN ĐKNH nêu trên không một lần đề cập đến lí do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty”. Tuy nhiên, tại phiên toà cấp sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT đều đưa ra lý do này như là một trong hai căn cứ cho việc ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. Điều cần lưu ý là Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lý do này để sửa bản án sơ thẩm. Trong tố tụng hành chính, thẩm quyền của Hội đồng xét xử là xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan[17]. Muốn đánh giá tính hợp pháp của một quyết định hành chính thì phải xem xét quyết định đó có được ban hành đúng pháp luật hay không. Cụ thể cần xem xét quyết định đó có được ban hành theo đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, đúng hình thức hay không? Việc áp dụng các quy phạm pháp luật làm căn cứ ban hành quyết định có đúng hay không? Trở lại tình huống đang được bình luận, khi đánh giá về tính hợp pháp của Quyết định số 2470 về hủy bỏ một phần GCNĐ KNH số 82099, một trong những vấn đề cốt lõi là Tòa án xem xét căn cứ huỷ bỏ một phần nhãn hiệu trên có đúng pháp luật hay không? Như đã phân tích ở trên, quyết định số 2470/QĐ-SHTT không căn cứ vào lý do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty”để làm cơ sở để hủy bỏ một phần nhãn hiệu nêu trên nên về nguyên tắc Tòa án sẽ không xem xét đến căn cứ này khi đánh giá tính hợp pháp của Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. Những lập luận, chứng cứ được đưa ra bởi người bị kiện tại phiên tòa phải bổ sung, chứng minh cho căn cứ pháp lý đã được đưa ra trong Quyết định hành chính, người bị kiện không thể đưa ra căn cứ pháp lý hoàn toàn mới để bổ sung vào căn cứ pháp lý cho việc ban hành Quyết định hành chính. Trong vụ án này, trong căn cứ pháp lý để hủy bỏ một phần nhãn hiệu trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT và lời trình bày của người bị kiện tại Tòa án đã có sự thiếu thống nhất, thể hiện căn cứ pháp lý cho việc ban hành Quyết định số 2470/QĐ-SHTT là thiếu chặt chẽ, chưa đảm bảo về việc tuân thủ pháp luật. Vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án của toà án cấp sơ thẩm theo hướng ngược lại, căn cứ vào lí do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty” là không phù hợp vì đây không phải là căn cứ mà Cục SHTT đã nêu trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. 5. Hoàn cảnh tương tự trong tương lai Trên thực tế hiện nay, xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu cũng như việc hủy bỏ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu vì không đáp ứng điều kiện bảo hộ xảy ra khá phổ biến. Trong vụ án trên, giải quyết xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu cũng như xác định điều kiện bảo hộ tên thương mại được căn cứ theo văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, đối với việc xem xét căn cứ hủy bỏ một phần GCNĐ KNH, Tòa án đã áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước thời điểm Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này có hiệu lực. Nếu hoàn cảnh tương tự xảy ra thì chúng ta giải quyết như thế nào trên cơ sở của những quy định của pháp luật hiện hành? Văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành cho phép sử dụng tên địa danh để đăng ký nhãn hiệu với những quy định chi tiết, cụ thể hơn nếu so với quy định pháp luật trước đây. Điều 873 Luật SHTT quy định về quyền đăng ký nhãn hiệu, trong đó khẳng định “đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép”. Cụ thể hóa vấn đề này, Điểm 10 Thông tư số 05/2013/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật SHTT về SHCN đã sửa đổi Điểm và bổ sung Điểm của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN. Điểm xác định thẩm quyền cấp văn bản cho phép đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận có chứa địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam là Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có khu vực địa lý tương ứng với địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương. Điểm bổ sung tiêu chí xác định địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm. Liên quan đến vấn đề đăng ký tên địa danh làm nhãn hiệu, Thông tư này quy định dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm là dấu hiệu dùng cho sản phẩm của địa phương và có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm chỉ dẫn rằng sản phẩm có nguồn gốc từ địa phương đó. Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm thường là địa danh, nhưng cũng có thể là dấu hiệu biểu trưng của địa phương hình ảnh các sự vật tiêu biểu của địa phương, như biểu tượng, bản đồ, cờ, huy hiệu, thắng cảnh, công trình đặc biệt của địa phương…, hoặc cũng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào khác. Địa danh có thể là tên gọi hiện hành hay tên gọi trong lịch sử, tên gọi chính thức hoặc tên gọi dân gian của một khu vực địa lý xác định theo địa giới hành chính hay các phương thức địa lý học. Một địa danh, dấu hiệu biểu trưng của địa phương sử dụng cho sản phẩm thông thường không phải là đặc sản có thể có hoặc không có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm, tùy thuộc vào sản phẩm và thực tế sử dụng địa danh, dấu hiệu biểu trưng của địa phương. Một trong những trường hợp tên địa danh có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm là trường hợp dùng cho sản phẩm khai thác nguyên liệu thiên nhiên than, sắt, thép, nhôm, xi măng, đá, muối, gỗ… ở địa phương và dùng cho những sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp phát triển ở địa phương. Với những quy định trên, việc sử dụng tên địa danh để cấu thành nhãn hiệu nói chung, cho các sản phẩm không phải là đặc sản địa phương đã được quy định cụ thể hơn, hạn chế phần nào những vấn đề pháp lý phát sinh. Xem thêm bài viết về “Tên thương mại” Xung đột quyền trong bảo hộ Nhãn hiệu và Tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang CHÚ THÍCH * TS Luật học, Phó Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh. * ThS, Luật sư, Trưởng VPLS Phạm và Liên danh. [1] Xem khoản 16 Điều 4 Luật SHTT nước CHXHCN Việt Nam năm 2005, sửa đổi năm 2009. [2] Điều 73 Luật SHTT liệt kê các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu. Điều 74 Luật SHTT quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu, trong đó có liệt kê các trường hợp mà nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt. [3] Trừ trường hợp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ trên cơ sở thực tiễn sử dụng. Xem thêm Điều 6 khoản 3 Luật SHTT [4] Được quy định tại khoản 21 Điều 4 Luật SHTT. [5] Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại xảy ra khi i dấu hiệu được bảo hộ trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn; ii các dấu hiệu này được bảo hộ đồng thời dưới hình thức tên thương mại và nhãn hiệu; iii dấu hiệu này được bảo hộ cho các chủ thể quyền khác nhau. Về vấn đề xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, xem thêm bài viết Lê Thị Nam Giang, Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2013, tr. 54 – 62. [6] Xem chi tiết tại Điều 17 Nghị định 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp Nghị định 103/2006/NĐ-CP. [7] Các chi tiết được trình bày trong Phần này được trích từ Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013. [8] Điểm g, khoản 2, Điều 6 Nghị định số 63/CP quy định chi tiết về SHCN quy định không được sử dụng làm nhãn hiệu “dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. [9] Xem nội dung Bản án của Toà phúc thẩm TANDTC được trích dẫn ở trên. [10] Xem chi tiết trong nội dung phần “Nhận thấy” trong Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013. [11] Cụ thể trong trường hợp nhãn hiệu bảo hộ có chứa yếu tố xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại, bên bị xâm phạm quyền có thể yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ hoặc/và khởi kiện ra tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp tên thương mại chứa đựng yếu tố xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền yêu cầu tòa án cấm bên vi phạm sử dụng tên thương mại đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu nhãn hiệu cũng có quyền đề nghị Cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp có tên xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu của mình phải thay đổi tên gọi cho phù hợp. Để có thể kết luận có hay không yếu tố xâm phạm quyền, cần căn cứ vào ít nhất hai yếu tố sau i Việc sử dụng dấu hiệu bị xem xét có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng không? Để đưa ra được kết luận về vấn đề này, cần xem đối tượng được xem xét có được pháp luật bảo hộ không, bảo hộ trong phạm vi nào; ii đối tượng được xem xét có trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ của chủ thể khác không? Về vấn đề này, xem thêm bài viết Lê Thị Nam Giang, Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2013, tr. 54 – 62. [12] Xem nội dung phần “Xét thấy” trong Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013 được trích dẫn trong bài viết. [13] Quy định tại Điều 63b Luật SHTT, Điều 63 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP. [14] Xem Điểm ix khoản 1 Điều 8 Thông tư số 3055 [15] Cục SHTT. Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, 2010, Điểm [16] Cục SHTT. Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, 2010, Điểm [17] Xem khoản 1 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 ngày 24/11/2010. Tác giả TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn Nguồn Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2013 79/2013 – 2013, Trang 69-79 Nguồn Fanpage Luật sư Online
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ- Điều 93 của Bộ luật hình sự năm 1999Điều 93. Tội giết người"Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung than hoặc tử hình … m Thuê giết người hoặc giết người thuê;n Có tính chất côn đồ…”- Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác… Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”… Sự cần thiết phải công bố án lệBộ luật hình sự năm 1999 đã quy định về tội giết người Điều 93 và tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” khoản 3 Điều 104. Hai tội danh này có nhiều dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản giống nhau như Đều có hành vi khách quan là đánh, đâm, chém, bắn…; hậu quả là nạn nhân chết. Việc phân biệt hai tội danh này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong nhiều trường hợp việc phân định hai tội danh nêu trên là rất khó khăn do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khó có thể xác định ý thức chủ quan của người phạm tội và thực tế thì cơ sở để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội chủ yếu dựa trên việc đánh giá những biểu hiện khách quan bên ngoài của hành vị phạm tội. Bên cạnh đó, việc xác định như thế nào là “gây thương tích dẫn đến chết người” cũng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau về cùng một hành vi, từ đó dễ dẫn đến sai sót trong việc xác định tội danh của người phạm Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn, công bố Án lệ số 01/2016/AL nhằm làm rõ sự khác biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Theo đó, dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt hai tội này là về ý thức chủ quan của bị cáo nhằm tước đoạt tính mạng của người khác hay chỉ có ý muốn gây thương tích cho người khác, họ có thấy hoặc buộc phải thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Nội dung vụ án và tình huống của án lệTrong các vụ việc tạo lập Án lệ số 01/2016/AL, bị cáo Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh, Đoàn Đức Lân đánh anh Nguyễn Văn Soi để trả thù bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay anh Soi để gây thương tích. Sau đó, Mạnh đã thực hiện hành vi đâm 02 nhát vào mặt sau đui phải, làm anh Soi chết. Kết luận giám định cho thấy anh Soi bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm, vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch, đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân bị hại chết là do cú sốc mất mấy cấp không hồi phục do vết thương động mạch. Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh đã bỏ trốn, đang bị truy lệ này đang xem xét trách nhiệm hình sự của người chủ mưu trong một vụ án hình sự có đồng phạm tham gia. Trong án lệ này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ vào ý thức chủ quan của bị cáo là có mong muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại không và hành vi khách quan thể hiện bên ngoài chứng minh cho ý thức chủ quan đó để xác định bị cáo phạm tội giết người hay cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Trường hợp này, người chủ mưu không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại nên chỉ yêu cầu người thực hành gây thương tích vào chân, tay bị hại; không yêu cầu người tiến hành tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Người thực hành làm đúng yêu cầu của người chủ mưu, nhưng sau đó nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp ngoài ý muốn của người chủ mưu…Trong trường hợp này, người chủ mưu chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết Hoàn cảnh tương tự được áp dụng án lệÁn lệ số 01/2016/AL nhằm hướng dẫn các Tòa án trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người chủ mưu phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” trong vụ án có đồng phạm. Theo đó, trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.Án lệ số 01/2016/AL được hình thành trên cơ sở một vụ án có đồng phạm và người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người chủ mưu. Tuy nhiên, bản chất của việc xác định bị cáo phạm tội giết người hay tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” là ở chỗ xác định ý thức chủ quan của bị cáo có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại hay không và hành vi khách quan chứng minh được cho ý thức chủ quan của bị cáo mà không phụ thuộc vào việc bị cáo đó là người chủ mưu hay người thực hành. Vì vậy, tình huống án lệ này cũng nên được áp dụng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm. Nếu chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại, khi gây thương tích, bị cáo không tấn công vào những phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người, việc nạn nhân chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo thì cũng cần áp dụng án lệ này để xử bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không xử tội “giết người”.Tuy nhiên, khi xem xét án lệ này cũng còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm cho rằng các bị cáo được thuê gây thương tích hiện đang bỏ trốn, chưa bắt được. Việc xác định tội danh đối với người thuê phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người chủ yếu dựa vào lời khai của bị cáo và sự phù hợp với vị trí gây thương tích. Chưa có căn cứ xác định ý thức chủ quan cũng như đầy đủ diễn biến hành vi khách quan của người được thuê khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, án lệ này chưa phải là giải pháp pháp lí toàn diện, dễ bị thay đổi nếu bắt được các bị cáo bỏ trốn và xuất hiện những tình tiết khác với vụ án đã được xét xử. Đặc biệt, khó khăn trong việc hiểu như thế nào là “đảm bảo những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau” để áp dụng xét xử các vụ án hình sự tương tự theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số 03/2015/ là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
Bảng lương của quân đội, công an từ 01/7/2023 Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản buộc ngân hàng trả lại tiền gửi tiết kiệm cho khách Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN Bản án về tranh chấp lao động bảo hiểm công ty chậm đóng bảo hiểm cho NLĐ Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con có yếu tố nước ngoài Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Bản án về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Bản án về tranh chấp yêu cầu trả tiền cọc và phạt cọc hợp đồng mua bán nhà Bản án về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và quyết định cưỡng chế thu hồi đất Bản án về tội làm nhục người khác Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do xây dựng liền kề Bản án về tội giết người, hiếp dâm và cướp tài sản Bản án về tội cho vay lãi nặng Quyết định về tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho QSDĐ và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồng tặng cho Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ của tác phẩm truyện tranh Tất cảDân sựHình sựHành chínhLao độngKinh tếHôn nhân gia đìnhTừ khóa lao động,10/2018/HS-ST,trộm cắp tài sản,.... Thời gian ban hành đến Đã cập nhật 265979 bản án 1. Bản án sơ thẩm 223558 2. Bản án phúc thẩm 42223 3. Quyết định giám đốc thẩm 200 4. Án lệ 63 5. Bản án tiếng Anh 266 Video Pháp Luật Đã Có CCCD Gắn Chíp Thì Có Cần Tài Khoản Định Danh Điện Tử Không? TVPL Tiện ích bản án Thời gian giải quyết vụ ánTính án phí Biểu mẫu tố tụngLuật sư tư vấn Tai nạn lao động ngoài giờ làm việc Tuyển tập Bản Án Tuyển tập các bản án về tranh chấp trợ cấp thôi việc - 6 ngày trước Tuyển tập các bản án về tội không tố giác tội phạm - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản - 1 tháng trước Tuyển tập các bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp - 1 tháng trước Xem thêmBình luận Bản Án Đòi lại tiền gửi bị Ngân hàng chiếm đoạt - 2 tháng trước Chịu trách nhiệm liên đới đối với tài sản do vợ/chồng mất để lại - 2 tháng trước Đòi lại phần tài sản thừa kế theo pháp luật - 2 tháng trước Đòi lại đất khi bị người khác lấn chiếm trong thời gian dài - 2 tháng trước Vợ, chồng có được thỏa thuận lại mức cấp dưỡng cho con sau ly hôn? - 3 tháng trước Xem thêmThông tin pháp luật Các trường hợp được thu hồi đất nông nghiệp để bán đấu giá? - 1 ngày trước Các loại thuế phải nộp khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất? - 1 ngày trước Hướng dẫn cách tra cứu mã số thuế hộ kinh doanh - 2 ngày trước Những hành vi nên tránh để không bị xử phạt về thuế và hóa đơn - 2 ngày trước Cách xử lý hóa đơn điện tử đã lập có sai sót theo Công văn 1647/TCT-CS - 3 ngày trước Xem thêmXem nhiều nhất Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu hỗ trợ lãi suất và bồi thường thiệt hại tài sản số 08/2022/KDTM-PT - 6 tháng trước 08/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Quyết định giám đốc thẩm về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị và yêu cầu đòi bồi thường do hành vi cưỡng chế gây ra số 04/2018/HC-GĐT - 3 tháng trước 04/2018/HC-GĐT - Giám đốc thẩm - Hành chính Quyết định giám đốc thẩm về tranh chấp trả thưởng tiền xổ số kiến thiết số 239/2022/DS-GĐT - 3 tháng trước 239/2022/DS-GĐT - Giám đốc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 02/2022/DS-PT - 2 tháng trước 02/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp di sản thừa kế di chúc chung của vợ chồng sau đó người vợ thay đổi di chúc số 01/2022/DS-PT - 3 tháng trước 01/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 333/2022/DS-PT - 1 ngày trước 333/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 331/2022/DS-PT - 1 ngày trước 331/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền lối đi qua và quyền sử dụng đất số 328/2022/DS-PT - 1 ngày trước 328/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội tham ô tài sản số 56/2023/HS-PT - 1 ngày trước 56/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêmBản án nổi bật Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêm Hôn nhân gia đình Bản án về ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 84/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 81/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 81/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 80/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn và yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng số 31/2022/HNGĐ-PT - 1 tháng trước 31/2022/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia ĐìnhXem thêm Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 194/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 194/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 190/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 190/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển giao quyền thu phí số 183/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 183/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/2022/KDTM-ST - 02/2022/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tên miền số 28/2019/KDTM-ST - 3 năm trước 28/2019/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tếXem thêm Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại số 01/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 01/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 835/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 835/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động số 834/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 834/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động hợp đồng thử việc số 01/2022/LĐ-ST - 10 tháng trước 01/2022/LĐ-ST - Sơ thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động với đối thủ cạnh tranh số 420/2019/LĐ-PT - 4 năm trước 420/2019/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao độngXem thêm Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 214/2023/HC-PT - 8 ngày trước 214/2023/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 126/2022/HC-ST - 10 ngày trước 126/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 39/2022/HC-ST - 10 ngày trước 39/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hộ tịch số 01/2019/HC-PT - 4 năm trước 01/2019/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN số 22/2017/HC-ST - 5 năm trước 22/2017/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chínhXem thêmBản án Tiếng Anh Judgment no. 20/2022/HSST against escape while being estorted - 6 tháng trước 20/2022/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment No. 612/2019/HS-PT on smuggling - 2 năm trước 612/2019/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment no. 54/2018/DS-ST dated 16/11/2018 on dispute over a service contract - 9 tháng trước 54/2018/DS-ST - Sơ thẩm - Dân sự Tiếng anh Judgment no. 76/2021/HNGD-ST on divorce dispute - 10 tháng trước 76/2021/HNGD-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Tiếng anh Judgment no. 709/2020/DS-PT dated july 28, 2020 on petition for declaring a notarized document - 1 năm trước 709/2020/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Tiếng anh Xem thêm Án lệ nổi bật Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện - 3 tháng trước 63/2023/AL Án lệ số 57/2023/AL về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản” - 3 tháng trước 57/2023/AL Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết - 3 tháng trước 60/2023/AL Án lệ số 58/2023/AL về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 của Bộ luật Hình sự - 3 tháng trước 58/2023/AL Án lệ số 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên - 3 tháng trước 61/2023/ALXem thêm Án lệ Thế giới Supreme Court Decision 2011Da64836 Decided April 26, 2013 about Confirmation, etc., of Domain Address Possession - 5 năm trước 2011Da64836 Supreme Court Decision 2011Da57869 Decided September 12, 2013 about Damages - 5 năm trước 2011Da57869 Supreme Court Decision 2011Da54631, 54648 Decided June 13, 2013 about Insurance Proceeds - 5 năm trước 2011Da54631 Supreme Court Decision 2011Da44276 Decided June 27, 2013 about Severance Pay, etc. - 5 năm trước 2011Da44276 Supreme Court Decision 2011Da39946 Decided November 28, 2013 about Wages - 5 năm trước 2011Da39946
1. Quy định pháp luật liên quan đến án lệ- Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với điểm d khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.- Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với Điều 330 Bộ luật hình sự 20152. Sự cần thiết công bố án lệ Thực tiễn cho thấy, có những hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng việc định tội, định khung lại không giống nhau. Cụ thể, trong vụ án sau Khi người điều khiển phương tiện giao thông bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xử lý vi phạm thì người lái xe có hành vi chống đối và điều khiển phương tiện đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ. Có trường hợp định tội danh là cố ý gây thương tích, trường hợp khác cũng tương tự như vậy thì lại định tội danh là chống người thi hành công vụ, có trường hợp thì truy tố, xét xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS vậy, với hành vi trên, việc định tội và định khung hình phạt là thiếu thống nhất. Do đó, cần thiết phải có một án lệ làm căn cứ định tội danh bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng các quy định Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ án" Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau Bị cáo Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng Từ Công T không biết rõ họ tên và địa chỉ làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết" .* Tình huống án lệLời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.”4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệKhi án lệ số 18/2018 có hiệu lực 03/12/2018, nếu có hành vi dùng phương tiện cố ý đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông khi thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc chết người thì phải áp dụng ALHS số 18/2018 để xét xử về tội giết người với tình tiết định khung là giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 hoặc điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS thức mở rộng, qua án lệ này giúp phân biệt rõ hành vi phạm tội giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân là tình tiết định khung quy định tại Điều 93 BLHS 1999, tương ứng với Điều 123 BLHS 2015 hoàn toàn khác biệt với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS 1999, tương ứng với Điều 330 BLHS là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
bình luận bản án hình sự