bát trân trung quốc

Bát trân Fito là thực phẩm bảo vệ sức khỏe có tác dụng bổ khí, ích huyết, với các thành phần dược liệu tự nhiên tốt cho sức khỏe nhanh chóng cải thiện các vấn đề như chức năng sinh dục kém, chứng mộng tinh di tinh, xuất tinh sớm, đau lung, tiếu dắt , tiểu đêm Tại Trung Quốc, tính đến cuối năm 2021, tổng dư nợ tín dụng bất động sản chiếm gần 27% tổng dư nợ toàn hệ thống, trong đó có 20,23% là vay mua nhà, 6,34% vay kinh doanh bất động sản. Tương tự, với Việt Nam, dư nợ tín dụng bất động sản tính đến cuối năm 2021 hơn 19% Trung tá Won Seong-hoon thuộc Lữ đoàn Công binh số 7 của Hàn Quốc nhấn mạnh: “Rèn luyện năng lực vượt sông là yếu tố then chốt trong khi triển khai hoạt động tác chiến do tính chất địa lý của Bán đảo Triều Tiên là có nhiều sông”. Hình ảnh trong cuộc tập trận. Mục lục bài viết Danh sách Top 20 bài mới nhất Danh sách Top 20 bài mới nhất Bát Trận Đồ – Tập 1 | Phim Bộ Cổ Trang Trung Quốc Hay Nhất | Thuyết Minh Bát Trận Đồ Full Bộ: #battrando #phimbotrungquoc #phimbo Phim Bộ Trung Quốc 2022 – Thuyết Minh : Thủy Nguyệt […] Bát Sát Tiêu Cầm | Phim Bộ Cổ Trang Trung Quốc Mới Hay Nhất 2022 ️ Xem Trộn Bộ Tại Đây: https://www.youtube.com/playlist?list modifikasi beat fi hitam simple tapi keren. Bát trân là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm và cầu kỳ chỉ dành cho giới quý tộc cung đình, chủ yếu là các bậc vua chúa. Xưa kia, sự khác biệt của ẩm thực nơi hoàng triều với chốn bình dân thể hiện qua hai yếu tố quý hiếm và cầu kỳ. Bát trân là ví dụ điển hình cho điều này. Đây là tám món ăn thuộc hàng tuyệt phẩm mà chỉ riêng vua chúa mới có cơ hội "chạm đũa" đến. Nhờ vào bàn tay của các ngự trù, bát trân thành mỹ vị. Nhờ vào sự quý hiếm được coi là tinh túy của thế giới muôn loài cùng sự kết hợp y lý của các nguyên liệu đi kèm, bát trân còn là những liều thuốc bổ, mang đến sức khỏe và sự trường thọ cho các bậc vua chúa. Thật ra, tính chất bổ dưỡng của bát trân thời gian sau này mới được chứng minh. Thời xa xưa, bát trân nổi tiếng vì đều là các loại thực phẩm cực kỳ hiếm. Mà đã hiếm thì ắt là quý, rồi quý nên tất phải ngon miệng và bổ dưỡng. Quan niệm thế nào là quý hiếm và cầu kỳ trong ẩm thực cung đình, theo thời gian, đã có nhiều thay đổi [1]. Bởi vậy thế nào được gọi là "bát trân" về cơ bản là không thống nhất. Ở Trung Quốc, đời nhà Đường 618-907 có Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628 thì các món ăn trong bát trân lại của sự thay đổi. Contents 1 Bát trân Trung Hoa thời Tống, Minh 2 Bát trân Việt Nam xưa 3 Bát trân hiện nay 4 Chú thích 5 Tham khảo Bát trân Trung Hoa thời Tống, Minh Bát trân 八珍 Long can 龍肝, gan rồng, Phượng tủy 鳳髓, tủy phượng, Báo thai 豹胎, bào thai báo, Lý vĩ 鯉尾, đuôi cá chép, Hào chích 鴞炙, chả chim cú, Tinh thần 猩脣, môi đười ươi, Hùng chưởng 熊掌, bàn chân gấu, Tô lạc thiền 酥酪蟬, ve nấu sữa béo. Ngoài các món kể trên còn nhiều thuyết khác, tùy nơi tùy thời. Bát trân Việt Nam xưa Việc thống nhất các món ăn được liệt vào danh sách bát trân trong ẩm thực cung đình nước ta vẫn chưa có hồi kết, bởi hầu hết các tư liệu về ẩm thực cung đình xưa đã thất truyền khá nhiều, mặt khác thỉnh thoảng lại có thêm những nghiên cứu làm nảy sinh vài món lạ. Tuy nhiên, có thể tạm liệt kê tám món trân quý thời xưa, bao gồm nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Danh sách bát trân này rất gần với "Trung Quốc thập trân" của người Hoa, được lưu truyền từ đời Tần, Hán. Nem công Công còn gọi là khổng tước thường sống trên đồi, gò cao hoặc trong những rừng tre trúc rậm rạp. Bởi vậy, việc săn bắt chim công khi xưa không phải dễ dàng. Nem công của người Việt được chế biến không qua nấu nướng, mà bằng cách cho thịt đùi công đã được giã mịn lên men vi sinh do tác động của các gia vị có tính nóng riềng, tỏi, tiêu.... Thịt công là "thuốc giải" nhiều độc tố trong thiên nhiên mà con người lỡ ăn phải, nên được xem như "thần hộ mệnh" của các bậc đế vương thời trước. Chả phượng Loài chim phượng chỉ sống ở vùng núi cao, ít người trông thấy, nói gì đến bắt được chúng. Người xưa còn cho rằng chim phượng xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Chả phượng là món ăn cực hiếm, cách chế biến lại rất cầu kỳ. Chim phượng bắt được thì cắt tiết, nhổ lông sống chứ không dùng nước sôi như các loại gia cầm khác. Thịt phượng được giã mịn, nêm gia vị, gói lá chuối thật kín rồi hấp chín rồi lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu. Thịt chim phượng giàu dinh dưỡng, cũng là "vị thuốc" bảo vệ sức khỏe tối đa. Da tê ngưu Lấy phần da gần nách tê giác, đem ngày phơi nắng, tối sấy lửa suốt 100 ngày, rồi tẩm rượu một tháng, phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Khi muốn chế biến da tê ngưu, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm. Bàn tay gấu Nhúng tay gấu vào mỡ đun sôi đủ một trăm lần để làm lông, sau đó nấu cùng nhiều vị thuốc bổ khác trong thời gian dài. Gân nai Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Sau đó luộc cho mềm rồi xẻ lấy sợi gân, tách ra khỏi bắp thịt. Ngâm gân nai vào nước có pha ít muối và dấm cho trắng và mềm. Khi đã mềm thì cho hầm chung với những nguyên phụ liệu khác như tôm khô, củ đậu, măng tươi, chả lụa... trong nước gà hầm đã lọc lấy nước trong rồi nêm gia vị. Môi đười ươi Bắt đười ươi rất khó, môi đười ươi là món ăn chỉ dành cho vua chúa. Thịt chân voi[2] có thuyết nói là "vòi voi"[1] Thịt gân ở chân voi săn chắc, giòn, chế biến món ăn vừa ngon vừa bổ dưỡng. Yến sào Con chim yến làm tổ bằng nước bọt vào vách đá/gỗ tạo nên cái tổ có hình dạng một nửa chén trà. Tổ yến mới làm xong gọi là tổ yến thô. Qua quá trình vệ sinh, tinh chế tổ yến, ta có yến sạch để làm nguyên vật liệu chế biến thành các món ăn. Tổ yến có công dụng bồi bổ thần kinh, gân cốt đến chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ. Bát trân hiện nay Yến sào yến oa, tổ yến. Gân nai lộc cân. Vi cá mập ngư xí Dùng vây cá mập. Nấu, đánh sạch thịt trên vây sau đó đem ninh với rượu và gừng trước khi chế biến với nước dùng ngọt. Bào ngư ốc cửu không Được hầm trong nước dùng tổng hợp gồm thịt gà, nạc heo, thịt xông khói kim hoa, gia vị suốt cả nửa ngày mới đạt đủ độ mềm, trước khi chế biến thành những món ngon như bồ câu hầm bào ngư, cháo bào ngư, bào ngư hầm nấm đông cô. Hải sâm Chế biến gần tương tự món bào ngư. Bong bóng cá Thường dùng bong bóng cá mú, cá đường. Thường tiềm gà với gia vị để lấy nước dùng, sau đó cho bong bóng cá vào. Sò điệp Là giống sò lớn, ngon và hiếm. Thường được xào hoặc lăn bột chiên. Gan ngỗng Có thể nấu cháo, làm pate, hoặc ướp gia vị và nấu trên lửa thật nhỏ. Chú thích ↑ 1,0 1,1 Bát trân xưa và nay ↑ Bát trân trong ẩm thực cung đình xưa Tham khảo Bát trân xưa và nay Thể loạiẨm thực châu Á Thể loạiẨm thực hoàng gia zh八珍 Bát trân vốn là một khái niệm, tên gọi xuất hiện từ thời nhà Chu 1121 – 221 trước Công nguyên thuộc Trung Quốc ngày nay để chỉ tám món trân quý, tám báu vật ẩm thực. Theo thời gian, văn hóa, qua các triều đại, bát trân có sự thay đổi, tuy nhiên vẫn là những món ăn được xếp vào loại quý hiếm, đắt đỏ mà thường chỉ dành cho Vua chúa hoặc tầng lớp thượng lưu. I. Bát trân triều đại Nhà Chu Nước sốt thịt và mỡ phủ trên cơm Lợn sữa hầm, chiên lửa nhỏ Thịt cừu hầm tẩm bột chiên giòn Thịt bò, cừu và thăn hươu nướng Thịt bò sống và thịt cừu nấu với rượu và đường, Thịt bò khô tẩm gia vị Gan cừu Gan chó có thể là sói. Cũng trong thời Nhà Chu, Bát trân cũng còn đề cập đến tám loại gia súc và thịt động vật như Cừu, nai sừng tấm, hươu, nai rừng, ngựa, lợn, chó và chó sói. Bát trân thời Nhà Chu là các loại thực phẩm cùng cách nấu nướng khá đơn giản khá gần gũi cuộc sống hoặc không phải là loại quá quí hiếm như về sau. Có lẽ trước Công nguyên, cuộc sống cũng đơn giản và khó khăn nên các loại thực phẩm trên cũng đã là quý mà dân thường ít được thưởng thức. Tài liệu về bát trân thời kỳ này cũng không cụ thể và chi tiết. II. Các triều đại Tống – Nguyên – Minh Bát trân thời nhà Tống Gan rồng có thể là gan của cá hoặc tê tê, hoặc gan của rắn, một số ý kiến nghiên cứu cho rằng đó là gan của một con ngựa bạch Tủy phượng hoàng có thể là tủy hoặc não của chim trĩ đực vàng, Bào thai báo, Đuôi cá chép Theo phân tích thì không phải đuôi cá chép, vì đuôi cá chép không có gì đặc biệt, không quý hiếm, có thể là đuôi của tê tê, vì con tê tê đã được gọi là ” cá chép”thời cổ đại, Cú nướng, Môi đười ươi hoặc thịt khô trên mặt nai sừng tấm, Tay gấu, Ve sầu chiên giòn ? Bát trân thời nhà Nguyên Có tám báu vật của Phương Bắc hoặc tám báu vật của Mông Cổ Pho mát tinh luyện Rượu sữa ngựa Móng lạc đà rừng Môi hươu Cháo sữa lạc đà Thiên nga nướng Sữa của cừu tía Sữa ngựa Bát trân thời nhà Minh giống thời nhà Tống Gan rồng có thể là gan của cá hoặc tê tê, hoặc gan của rắn, một số ý kiến nghiên cứu cho rằng đó là gan của một con ngựa bạch Tủy phượng hoàng có thể là tủy hoặc não của chim trĩ đực vàng, Bào thai báo, Đuôi cá chép Theo phân tích thì không phải đuôi cá chép, vì đuôi cá chép không có gì đặc biệt, không quý hiếm, có thể là đuôi của tê tê, vì con tê tê đã được gọi là ” cá chép”thời cổ đại, Cú nướng, Môi đười ươi thịt khô trên mặt nai sừng tấm, Tay gấu, Ve sầu có lẽ là pho mát giòn cao cấp hình giống ve sầu III. Bát trân thời nhà Thanh Bát trân của triều đại Nhà Thanh có nhiều khái niệm Bát trân khái niệm chung Hải sâm Vi cá mập, Xương loại xương cá giòn sụn Bụng cá hoặc bóng cá, Tổ Yến Tay gấu Gân hươu Sâu chưa rõ ? Bát trân của đặc sản núi rừng và sông biển Núi rừng Tay gấu, nhung hươu, mũi tê giác hoặc chân voi, bướu, cầy mèo, bào thai báo, vú sư tử. Sông biển Vi cá mập, bào ngư, môi cá, hải sâm, baba, sò điệp, cá chiên giòn, ếch. Bát trân của bốn loại thực phẩm Rừng Tay gấu, bướu, nấm, môi đười ươi, vòi voi, bào thai báo, đuôi tê giác, gân hươu Biển Yến sào, vi cá mập, hắc sâm lớn, cá chạch, xương cá, bào ngư, hải cẩu, cá con chưa rõ Chim Nhạn đỏ, chim cút, gà gô, chim sẻ sặc sỡ có thể là chim công, chim bồ câu rùa, đại bàng đầu đỏ, phi long một loại chim gọi là gà gô hạt phỉ trong các khu rừng Đông Bắc Trung Quốc, Rau nấm Nấm hầu thủ, nấm trắng, nấm tre, nấm tổ lừa, nấm bụng dê, nấm hoa, nấm đông cô, hoa loa kèn. IV. Thời Trung Hoa Dân Quốc Thời ttieeps theo sau nhà Thanh, Bát trân trong ẩm thực mỗi vùng một khác và có nhiều loại hơn, nhưng tựu trung theo ẩm thực Bắc Kinh là tám loại sau Môi đười ươi, Tổ yến, bướu, tay gấu, nấm lớn, bào thai báo, gân nai, ếch Các vùng khác như Yên Đài, Sơn Đông thì thêm/ thay các loại Bào ngư, hải sâm, sò điệp, baba, cầy hương mèo, vịt trời, măng tứ xuyên, V. Thời xưa ở Việt nam Các triều đại Vua chúa Bát trân bao gồm Nem công, chả phượng, da tê giác, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Nhiều trong số Bát trân trước đây giờ là động vật được bảo vệ và nghiêm cấm săn bắn giết hại trên phạm vi Quốc tế, chẳng hạn như gấu, voi, đười ươi, báo, tê giác, tê tê, cú, hải cẩu, cá con, trên. Ngày nay những con vật tự nhiên này không thể được đưa vào Bát trân. Do vậy, trong thời hiện đại, khi chưa có những quy định chặt chẽ về bảo tồn động vật quý hiếm, bát trân là Tay gấu, tê tê, gân nai, tổ yến, bào ngư, vi cá, hải sâm, sâm cầm Hiện nay, sau khi có quy định về bảo tồn động vật quý hiếm, ở Việt nam ngày nay có thể đưa ra tám món bát trân như sau Gân nai, tổ yến, bào ngư, vi cá, hải sâm, ba ba, sâm cầm, nấm quý Các loại thực phẩm trên thường được chế biến cùng các loại thảo dược, gia vị quý hiếm như nhân sâm, đông trùng hạ thảo, nấm, sá sùng … Nguồn bài viết “Bát Trân“ Dược Thiện Bát trân là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm và cầu kỳ thường chỉ dành cho vua chúa hoặc quý tộc cung đình. Hãy cùng tìm hiểu về Bát trân thông qua bài trắc nghiệm dưới đây. Bát trân gồm tám món ăn từ xa xưa được truyền lại thống nhất qua các thời đại?A. ĐúngB. Sai Ẩm thực cung đình thường có hai đặc điểm chính gồm quý hiếm và cầu kỳ, theo thời gian những tiêu chí trên có nhiều thay đổi. Bởi vậy thế nào được gọi là “bát trân” về cơ bản gồm nhiều khái niệm không thống nhất. Ở Trung Quốc, đời nhà Đường 618-907 đã xuất hiện Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628 thì các món ăn trong bát trân lại của sự thay đổi. Tuy nhiên, dù thay đổi thế nào thì bát trân hầu như đều gồm các món quý hiếm như Long can Gan rồng, Phượng tủy Tủy phượng, Báo thai Bào thai báo, Lý vĩ Đuôi cá chép, Hào chích Chả chim cú, Tinh thần Môi đười ươi, Hùng chưởng Bàn chân gấu, Tô lạc thiền Ve nấu sữa béo. Ngoài các món kể trên còn nhiều thuyết khác nhau phụ thuộc vào thời gian và địa điểm. Tại Việt Nam “Bát trân” gồm nem Công, chả Phượng, da Tây Ngưu, bàn tay Gấu, gân Nai, môi Đười ươi, thịt chân Voi, Yến sào. Vì hiếm nên nó chỉ dùng trong ẩm thực cung đình, để vua ngự thiện còn người dân bình thường chỉ nghe tiếng chứ khó lòng mà biết được mùi vị nó thế nào. Đáp án B. Sai Nem công là được chế biến như thế nào ?A. Được làm với nguyên liệu chính là thịt công. B. Các loại nem từ nhiều nguyên liệu khác nhau và được trang trí hình con công. Xa xưa, chim công thường được gọi là khổng tước, một loài chim đẹp quý. Khác với phần mật được cho là có tính độc cao, thịt chim công lại được xem là rất mát, tốt cho sức khỏe. Vậy nên, đầu bếp chốn cung đình thường dùng thịt chim công để làm nguyên liệu nấu thành món ăn quý dâng lên vua. Nem công là nem làm từ da và thịt của con công. Món ăn này đặc biệt ở chỗ không qua nấu nướng mà được làm chín bằng quá trình lên men. Để làm món nem công, người ta dùng phần thịt đùi của con công trưởng thành giã mịn sau đó trộn cùng gia vị rồi gói bằng lá chuối và ủ trong khoảng 3 ngày là có thể ăn được. Vì thịt công rất lành và có khả năng thải được nhiều loại độc nên món ăn này được liệt vào hàng quý giá và được các bậc vua chúa vô cùng yêu thích. Nem công ngày nay được các nhà hàng chế biến khá nhiều nhưng nó không phải là “nem công” quý hiếm có trong bát trân. Nó chỉ là một sự mô phỏng để thu hút thực khách mà thôi. Đáp án A. Được làm với nguyên liệu chính là thịt công. Chả Phượng làm từ nguyên liệu chính gì?A. Làm từ thịt chim Trĩ, có hình dáng giống với chim Phượng trong nghệ thuật. B. Chả làm từ các loại thịt khác nhau và được trang trí hình chim Phượng. Phượng Hoàng chỉ là một loài chim trong truyền thuyết do trí tưởng tượng phong phú của con người mà ra, chính vì vậy không thể nào có nguyên liệu là thịt chim phượng. Chả phượng thực chất được làm từ thịt của chim trĩ, một loại chim có đuôi dài đẹp, khá giống với chim phượng trên các bức điêu khắc xưa. Chả này đặc biệt chỉ được chế biến từ thịt chim trống, vì con phượng là con chim trống còn con mái gọi là hoàng. Chim trĩ sau khi bắt được chế biến lấy phần thịt nạc cho vào cối giã nhuyễn cùng mỡ gà trống. Sau khi thịt chim được phết nhuyễn người ta trộn đều cùng với gia vị sau đó gói vào lá chuối và hấp chín là có thể dùng được. Cũng có một vài nơi người ta chiên chả phượng trong mỡ gà nóng đến khi chín vàng để thưởng thức. Giống như thịt chim công, thịt trĩ có dược tính cao, tốt cho sức khỏe nên được nhiều bậc đế vương và các gia đình hoàng tộc yêu thích. Đáp án A. Làm từ thịt chim Trĩ, một loại chim có hình dáng giống với chim Phượng trong nghệ thuật. Món da Tê Ngưu được làm từ da Tê Tê ?A. Đúng B. Sai Ngày xưa người ta gọi Tê Giác là Tê Ngưu. Tê Ngưu có vùng da khá dày, vậy nên để làm món quý này, các ngự trù chỉ lấy phần da phía trong nách. Phần da sau khi được cắt ra, sẽ mang đi phơi khô dưới nắng tối lại sấy lửa suốt 100 ngày liền, sau đó tẩm rượu một tháng, phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Khi muốn chế biến da tê ngưu, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày bảy đêm, rửa sạch, đem đi hấp cách thủy. Sau đó mới đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và án B. Sai Tay Gấu được làm từ chân Gấu, có tên gọi Tay Gấu là do thói quen?A. Đúng B. Sai Gấu sau khi bị bắt về sẽ bị chặt mất chi trước. Sau đó, phần chi này được các ngự trù mang đi nhúng vào một chảo mỡ đun sôi để trụng sạch phần lông. Tương truyền, tay gấu phải được trụng vào mỡ 100 lần để mềm và sạch sẽ, trước khi mang đi hầm cùng nhiều vị thảo mộc khác để tạo thành món ăn dâng vua. Đáp án B. Sai Môi Đười ươi làm từ thịt đười ươi, có tên gọi môi Đười ươi là do thói quen?A. Đúng B. Sai Đười ươi là loài linh trưởng thông minh, ngày xưa để bắt được nó vô cùng khó khăn và gian nan. Chính vì vậy, người ta phải dựa vào tập tính thích bắt chước của loài này mà dụ nó sập bẫy. Cụ thể, theo sách An Nam chí lược thì đười ươi chỉ ưa sống trong hang núi, không bao giờ đi theo một đường nhất định. Muốn bắt được đười ươi, con người phải lừa đặt be rượu và các đôi dép da trên đường chúng đi qua. Đười ươi vốn tính tò mò nên sẽ bắt chước đi dép và uống rượu như con người. Đến khi, đười ươi thấm mệt vì say rượu, thợ săn sẽ giăng bẫy bắt nó. Môi đười ươi chính là bộ phận được ngự trù lấy làm nguyên liệu để nấu món ngon dâng vua. Đáp án B. Sai Dân gian có câu “Mười voi không được bát nước xáo”. Do đó tên gọi món ăn Chân voi không liên quan đến voi?A. Đúng B. Sai Dân gian có câu “mười voi không được bát nước xáo” thế nhưng nó vẫn có mặt trong bát trân là bởi voi khá quý hiếm. Voi ngày xưa thường được xem là phương tiện đi lại của vua chúa cũng như là chiến binh đắc lực khi ra chiến trường. Thế nên, người ta chỉ làm thịt voi khi nó đã qua đời. Bên cạnh ngà, thì thịt gân mềm ở dưới bàn chân voi là nguyên liệu đáng giá bậc nhất, được sử dụng nấu thành món ngon dâng vua. Đáp án B. Sai Yến sào không phải món ăn duy nhất trong Bát trân còn phổ biến ngày nay? A. Đúng B. Sai Chim yến làm tổ bằng nước bọt vào vách đá cao tạo nên cái tổ có hình dạng một nửa chén trà. Tổ yến mới làm xong gọi là tổ yến thô. Qua quá trình vệ sinh, tinh chế tổ yến, ta có yến sạch để làm nguyên vật liệu chế biến thành các món ăn. Tổ yến có công dụng bồi bổ thần kinh, gân cốt đến chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ. Ngày nay, ngoài Yến sào, món Gân nai cũng được phổ biến. Đáp án A. Đúng Theo cách truyền thống Gân Nai được chế biến bằng cách hấp? A. Đúng B. Sai Cách làm gân nai thành món ăn khá cầu kỳ và trải qua nhiều công đoạn. Người ta dùng lửa thui đùi nai để sạch lông. Tiếp đến, cho phần đùi sơ chế vào hầm mềm. Thịt sau khi hầm được xẻ ra, lóc lấy phần gân. Đoạn lấy gân ngâm trong nước pha hỗn hợp muối giấm để trắng. Cuối cùng, cắt gân thành khúc vừa ăn rồi hầm chung với nhiều nguyên liệu bổ khác. Đáp án B. Sai Video xem thêm Những cuộc đàn áp đức tin tàn khốc nhất trong lịch sử Your browser does not support the video tag. Please upgrade to lastest version Ad will display in 09 seconds Bát trân xưa… Xưa kia, sự khác biệt của ẩm thực nơi vương triều với chốn bình dân thể hiện qua hai yếu tố quý hiếm và cầu kỳ. Bát trân là ví dụ điển hình cho điều này. Đây là tám món ăn thuộc hàng tuyệt phẩm mà chỉ riêng vua chúa mới có cơ hội “chạm đũa” đến. Nhờ vào bàn tay của các ngự trù, bát trân thành mỹ vị. Nhờ vào sự quý hiếm được coi là tinh túy của thế giới muôn loài cùng sự kết hợp y lý của các nguyên liệu đi kèm, bát trân còn là những liều thuốc bổ, mang đến sức khỏe và sự trường thọ cho các bậc vua chúa. Thật ra, tính chất bổ dưỡng của bát trân thời gian sau này mới được chứng minh. Thời xa xưa, bát trân nổi tiếng vì đều là các loại thực phẩm cực kỳ hiếm. Mà đã hiếm thì ắt là quý, rồi quý nên tất phải ngon miệng và bổ dưỡng! Việc thống nhất các món ăn được liệt vào danh sách bát trân trong ẩm thực cung đình nước ta vẫn chưa có hồi kết, bởi hầu hết các tư liệu về ẩm thực cung đình xưa đã thất truyền khá nhiều, mặt khác thỉnh thoảng lại có thêm những nghiên cứu làm nảy sinh vài món lạ. Tuy nhiên, có thể tạm liệt kê tám món trân quý thời xưa, bao gồm nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, vòi voi và yến sào. Danh sách bát trân này rất gần với “Trung Quốc thập trân” của người Hoa, được lưu truyền từ đời Tần, Hán. Nem công Công còn gọi là khổng tước thường sống trên đồi, gò cao hoặc trong những rừng tre trúc rậm rạp. Bởi vậy, việc săn bắt chim công khi xưa không phải dễ dàng. Nem công của người Việt được chế biến không qua nấu nướng, mà bằng cách cho thịt đùi công đã được giã mịn lên men vi sinh do tác động của các gia vị có tính nóng riềng, tỏi, tiêu…. Thịt công là “thuốc giải” nhiều độc tố trong thiên nhiên mà con người lỡ ăn phải, nên được xem như “thần hộ mạng” của các bậc đế vương thời trước. Chả phượng Loài chim phượng chỉ sống ở vùng núi cao, ít người trông thấy, nói gì đến bắt được chúng. Người xưa còn cho rằng chim phượng xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Chả phượng là món ăn cực hiếm, cách chế biến lại rất cầu kỳ. Chim phượng bắt được thì cắt tiết, nhổ lông sống chứ không dùng nước sôi như các loại gia cầm khác. Thịt phượng được giã mịn, nêm gia vị, gói lá chuối thật kín rồi hấp chín. Thịt chim phượng giàu dinh dưỡng, cũng là “vị thuốc” bảo vệ sức khỏe tối đa. Da tê ngưu tây ngưu bì Tê ngưu tê giác là loài thú có lớp da cứng, dày đến một tấc, như tấm áo giáp an toàn. Chỉ duy ở nách tê ngưu có một lớp da rất mỏng, được coi là “tử huyệt” của nó và cũng là tuyệt phẩm trong ẩm thực! Phần da nách tê ngưu khi ngâm nước sẽ mềm ra, nấu ăn rất ngon và vô cùng bổ dưỡng. Cầu kỳ hơn, các ngự trù xưa đem da tê ngưu ngày phơi nắng, tối sấy lửa suốt 100 ngày, rồi tẩm rượu một tháng, phơi khô và ngâm nước tro thảo mộc bảy ngày đêm trước khi chế biến. Miếng da bởi vậy mà thuộc hàng bát trân, bởi có lẽ nó đã hấp thu hết khí đất trời trong đó! Bàn tay gấu hùng chưởng Gấu là loài ưa ngủ đông. Mùa đông, gấu vào hang thu mình ngủ, nhưng vẫn thò hai tay ra ngoài. Việc làm đầu tiên khi thức dậy là nó… liếm hai bàn tay chứ không đi tìm thức ăn. Đôi bàn tay gấu được coi là đã thu được khí âm dương của trời đất nên rất bổ và quý. Khi chế biến món hùng chưởng, người xưa phải nhúng tay gấu vào mỡ đun sôi đủ một trăm lần để làm lông, sau đó nấu cùng nhiều vị thuốc bổ khác trong thời gian dài để dâng lên vua chúa. Gân nai Gân nai có thể chế biến thành nhiều món ngon. Để có gân nguyên liệu, đùi nai được thui lửa, cạo sạch lông, cho vào nước luộc mềm rồi xẻ tách lấy gân bằng dao nhọn. Tiếp đó, gân nai được nấu trong nước có ít muối và giấm đến khi mềm mại, trắng tinh. Việc còn lại là cắt khúc, hầm chung với tôm khô, măng, củ đậu, chả lụa… và các vị thuốc trong nước luộc gà đã lọc trong veo. Môi đười ươi Đười ươi là giống khỉ lớn, mắt và môi rất to. Món môi đười ươi chỉ dành cho vua chúa, bởi bắt đười ươi rất khó khăn và nguy hiểm. Vòi voi Thịt voi rất nhạt nhẽo, người đời vẫn thường nói “trăm voi không được bát nước xáo”, nhưng ít ai biết dưới lớp da cứng của vòi là thịt gân săn chắc, giòn, chế biến thành món ăn thì tuyệt trần đời, lại là phương thuốc chữa bệnh gân cốt vô cùng công hiệu. Yến sào Việt Nam là một trong tám quốc gia trên thế giới có yến sào tự nhiên – loại thực phẩm cao cấp và quý giá, được truyền tụng là “vàng trắng” trong ẩm thực. Yến sào không phải là món ăn ngon vì mùi tanh, vị nhạt, nhưng công dụng thì rất nhiều, từ giúp bồi bổ thần kinh, gân cốt đến chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ. Yến sào có thể chế biến thành nhiều món ăn như chè yến hạt sen, yến thả, bồ câu tiềm yến sào… Cái ngon của yến sào có được cũng nhờ vào công phu chế biến của đầu bếp và những nguyên liệu đi kèm tinh tế như thế. Sưu tầm. Tám món ăn hay mười món ăn quý nhất Trung Hoa. Nước Trung Hoa xưa, kể cả ngày nay nữa, có rất nhiều món ăn ngon, lạ, bổ. Những vua chúa cũng như những anh hùng hảo hán trải qua bao thời đại, đã lựa chọn trong các thức ăn ấy để lấy mấy thứ mà người ta cho là lạ nhứt, cầu kỳ nhứt, vì hiếm có. Những món ăn hiếm ấy thường là tám thứ, gọi là Bát trân. Dưới đời Tần Thủy Hoàng 221-209 trước không phải là tám, món mà vua này thường dùng mười món nên gọi là Thập trân. Tính chất bổ dưỡng của Bát hay Thập trân không biết có thực không, nhưng nhứt định các thức ấy đều thuộc về loại thực phẩm cực kỳ hiếm có. Và, vì hiếm nên người ta cho là quý, rồi cho là lạ và ắt phải ngon, phải bổ. Đời nhà Đường 618-907 thì có Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628 thì lại có Bát trân khác. Bát trân của đời Đường là Gan rồng. Chả phụng. Báo, bao tử cọp. Đuôi cá gáy. Chả thịt cú. Môi đười ươi. Bàn tay gấu. Vành mí mắt heo con. Bát trân của đời nhà Tống và nhà Minh là Gan rồng. Chả phụng. Thịt chim Dủ Di lộn. Đuôi cá lý ngư cá chép. Môi đười ươi. Thỏ hàng nàm Vành mí mắt heo con. Bàn tay gấu. Thập trân đời Tần và Hán Nem công Tứ Xuyên. Chả phượng Tây Khương. Da Tây ngu tê giác Tây Tạng. Tay gấu Mông Cổ. Gân hươu Liêu Ninh. Mí mắt đười ươi Hiệp Tây. Chân voi Thanh Hải. Yến sào Tây Sa. Trùng thảo Quảng Tây. Trúc sáng Vân Nam. Đây là "Mười món ăn quý của Trung Hoa" Trung Quốc thập trân. Nem công Tứ Xuyên là nem làm bằng da và thịt con công đánh bẫy ở rừng trúc tỉnh Tứ Xuyên, thuộc phía tây nam Trung Hoa. Công tên chữ là Khổng Tước ửa ở nơi gò, đồi cao để bay dễ dàng; và ở gần rừng tre, trúc và cây cao rậm rạp, những nơi thường có những thú dữ như cọp, beo. Săn bắt nó rất khó. Công trống Tứ Xuyên sinh ra được 36 tháng thì đuôi dài trên hai thước. Khi nó múa, lôn xòe tròn như cái lọng hay cái bánh xe, có đủ màu sắc của cầu vòng. Mật công rất độc, ăn phải sẽ chết. Nhưng thịt và da công thì có thể giải được hết thảy các thứ độc do thời khí gây nên. Chả phượng Tây Khương là đem một con trống và một con mái, lựa giống vàng hay trắng, đuôi dài, đánh bẫy ở Tây Khương, đem cắt tiết rồi nhổ lông sống. Chớ không nhúng nước sôi như làm lông gà. Vì nếu nhúng như vậy thì chả sẽ vữa, nát và mất giòn. Bỏ hết ruột, gan, mề, mật, phổi. Lấy dao sắc lột bỏ da, chỉ lấy thịt nạc. Xương, đầu, cánh, chân đều bỏ cả. Thịt nạc cắt thành miếng nhỏ, cho vào cối đá mà quết. Lấy nước mắm, tiêu, xì dầu, một chút hàn the tán nhỏ, một chút mật ong hay đường trắng, và cứ năm phần thịt phượng thì cho vào một phần mỡ gà trống thiến béo, rồi tiếp tục quết đến bao giờ thành chả nhuyễn mới thôi. Bấy giờ nặn chả ấy thành viên bằng ngón tay cái, để vào nồi hấp cách thủy cho thịt vừa chín tới; đoạn lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu. Da tây ngu Tây Tạng là da nách con tây ngu. Tại miền rừng núi ở về phía tây Trung Hoa như chân dãy núi xứ Tây Tạng, khí hậu ẩm thấp, trong những rừng cây thưa thớt có một loài heo rừng đặc biệt gọi là con tây ngu, tê ngu, tây ngưu hay tê giác. Đây là một giống thú rất hung dữ, vì nó có một sức mạnh phi thường. Da tây ngu dầy đến một tấc và gấp lại thành miếng như áo giáp. Các khí giới thường khó đâm thủng được. Tuy nhiên chỉ có da ở nách hai chân trước và háng hai chân sau là mềm. Người đi săn phải nhắm trúng chỗ ấy mà đâm mới hạ nổi nó. Nhưn làm gì đến gần được. Muốn săn nó chỉ có lối đánh bẫy mà thôi. Người ta đốt rừng dồn nó đến chỗ đầm lầy, rồi nhử nó tới ăn các cây gai loài này chuyên ăn cây có gai. Khi tới ăn bị sa lầy xuống bùn sình, lúc bấy giờ dùng giáo mác mà đâm vào nách, vào háng nó. Thịt tê ngưu dai, ăn không ngon. Chỉ có da nách của nó là ăn được. Đem da tươi cạo hết lông, lọc hết mỡ; rồi ban ngày đem phơi nắng, tối lại sấy lửa đến 100 ngày. Đoạn tẩm rượu Mai quế lộ một tháng rồi đem phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Vì người ta tin rằng nếu để ngoài trời, da sẽ bay đi mất. Khi muốn ăn da ấy, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm. Người ta nghiệm rằng đã ăn được da tây ngu thì sau sẽ hết bịnh hôi nách và không bao giờ bị phong sương mang bịnh. Tay gấu Mông Cổ là bàn tay của con gấu ở xứ Mông Cổ. Tại miền bắc Trung Hoa, nhứt là ở rừng xứ Mông Cổ có loại gấu nâu và gấu trắng rất to lớn. Cứ đến mùa đông, gấu này vào hang hay khe đá, bụi cây mà ngủ trong 3 đến 6 tháng, không ăn uống gì cả. Nó nằm thu mình lại, thò hai tay ra ngoài như để phơi nắng. Thế rồi khi đông tàn, tuyết tan, xuân đến, gấu thức dậy. Việc đầu tiên của nó là liếm hai bàn tay. Liếm cả ngày, cả đêm, không đi kiếm mồi mà cũng no! Người ta cho rằng hai bàn tay của nó đã thu được âm dương của trời đất khi nó ngủ, nên lúc thức dậy nó liếm tay thay vì ăn thức ăn. Chính vì thế mà người ta chuộng bàn tay gấu mà gọi là "hùng chưởng". Ăn tay gấu sẽ được khỏe mạnh, sống lâu. Người ta lại cho rằng khi bắt được gấu thì các chất tinh khiết của mạch nó đều chạy lên cả hai bàn tay. Đây cũng là thêm một lý do để làm cho món tay gấu thành ra quý, bổ. Muốn tay gấu trở thành thức ăn, người ta phải nhúng bàn tay gấu vào mỡ gấu đun sôi đủ một trăm lần để làm lông. Đoạn lấy gân trong bàn tay ngâm vào nước nhựa trái đu đủ trong một ngày một đêm, rồi lại ngâm vào nước tro một ngày. Bấy giờ mới đem rửa gân và da gang bàn tay bằng rượu, rồi nấu các vị thuốc bổ, trong đó có huỳnh kỳ, khởi tử, hoài sơn, Gân hươu Liêu Ninh là gân con hươu ở Liêu Ninh làm món ăn. Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý. Vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng. Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn. Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu chanh hay muốn tiêu, mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ. Mí mắt đười ươi Hiệp Tây là lấy mí mắt con đười ươi ở Hiệp Tây. Tại rừng rậm tỉnh Hiệp Tây có một loài đười ươi lớn, tay dài, mặt trắng, lông nâu và có đôi mắt và đôi môi rất to. Đây là một giống khỉ lớn, đi bằng hai chân rất mau và có một sức khỏe kinh khủng. Săn được nó là một điều rất khó khăn. Vì nếu vô phúc bị nó bắt được thì nó sẽ nắm lấy đầu mà bóp bẹp như bóp một hột vịt. Đặc tính của nó hay cười, thích uống thứ gì cay như rượu. Người săn bắt đười ươi dùng mấy chụp dép da hay guốc gỗ và mấy hũ rượu mạnh đặt ở trước cửa hang của chúng. Đười ươi biết ngay người ta muốn bắt chúng, nên kéo nhau bỏ hang đi hết. Nhưng một lúc sau tiếc của, chúng kêu nhau trở lại lấy rượu uống, lấy dép guốc đi rồi cười giỡn cả khu rừng lại múa may, nhảy nhót. Một lúc say mềm thì ngã lăn ra đất mà ngủ, mồm há ra mà cười với trời. Bấy giờ, người ta xông ra trói, bắt dễ như trở bàn tay. Mí mắt, môi đười ươi phơi khô để làm vị ăn. Lông thì làm bút lông thật tốt. Chân voi Thanh Hải là chân của con voi ở Thanh Hải. Voi ăn cây cỏ, hoa quả. Thường, voi được 25 đe6 n 30 năm mới đẻ con. Ở trên rừng voi sống lâu tới 100 năm. Có con sống trên 200 năm. Chân voi tuy lớn, cục mịch thế mà rất tài tình. Khi dẵm lên đâu thì nó biết ngay chỗ nào mềm, chỗ nào cứng nên ít khi bị sa hố. Vì trong gang bàn chân của nó có một lớp thịt rất mềm; sau lớp thịt ấy có nhiều dây thần kinh thật tinh vi. Chính lớp thịt ấy, người ta lấy để làm món ăn, vì nó ngon giòn, nuốt qua cổ họng đã thấy trong người khoan khoái, và chữa khỏi bịnh gân cốt. Người ta lấy thịt trong bàn chân voi rồi ninh một ngày một đêm, đoạn nấu với các vị thuốc và đem ăn cùng với thạch rau câu vì hai thứ giòn, mềm như nhau. Thạch sẽ dẫn chất bổ của thịt chân voi đi khắp cơ thể ta một cách nhanh chóng. Yến sào Tây Sa là món yến tìm thấy trên hòn đảo Tây Sa. Yến biển thuộc về loài chim sẻ. Trên thế giới có chừng 10 giống. Chúng ở rải rác trên các hải đảo chạy dài từ đảo Vinh Sơn thuộc tỉnh Quảng Bình, qua cù lao Chàm ngang Đà Nẵng, vách đá bờ biển phía đông mũi đất Phương Mai, tới 7 đảo ngoài khơi Nha Trang, từ ngang đèo Cả tới vịnh Cam Ranh. Hải yến được nổi tiếng trên thế giới chẳng phải vì giọng hót hay, bộ mã đẹp hay vì thịt ngon mà chỉ vì cái ổ của chim yến sào. Ổ yến làm bằng một thứ rong biển đặc biệt được biến chế bởi nước miếng của chim yến. Người Á Đông đã công nhận là món ăn thật bổ, ngon; và cũng vì các tính chất quý ấy m` ổ yến được liệt vào một món ăn đắt nhất, có thể nó rằng ổ yến đắt như vàng. Ổ yến làm ở những chỗ cheo leo trên vách đá. Nó có nhiều màu tùy theo sự thay đổi của vách đá. Ở trên cao, ổ màu trắng, ở phía dưới ẩm thấp hơn thì ổ màu xám hay màu xanh lợt, màu da cam hoặc đỏ như máu. Ổ yến đỏ gọi là huyết yến là loại ổ quý nhất, vì người ta cho rằng ổ sở dĩ đỏ là vì làm bằng nước dãi và máu của chim yến mẹ đã hy sinh làm ổ bằng máu của nó. Ổ yến đỏ rất hiếm. Thật ra ổ yến đỏ này không phải là do huyết mẹ mà có lẽ vì chim đã làm ổ này bằng một thứ rong biển đặc biệt lấy ở ngoài khơi, loại rong biển này màu đỏ. Cũng như những ổ khác màu trắng hay màu xanh lợt do chim đã làm bằng một thứ rong biển trắng như thạch, tìm ở ngoài biển rồi lấy nước dãi biến chế thành những sợi tơ trong. Đoạn chúng đem gắn chặt sợi nọ vào sợi kia thành một cái ổ xinh đẹp, rất nhẹ và bền. Các nhà bác học phân chất trong ổ yến có nước vị toan của miệng và dạ dày chim là chất làm cho thức ăn dễ tiêu, lại có thêm chất đường, chất nhựa tròng trắng trứng gà là cu-bi-lêđo và sinh chất cùng hóa chất của muốn biển của loài hải rong là loại có nhiều i-ốt và lân tinh. Muốn ăn yến, người ta ngâm yến vào nước nóng, nào là cho dầu phộng vào nước để lọc hết lông và chất dơ, nào là nhặt hết lông yến bằng tăm, nào là chế nước dùng bằng thịt gà, thịt chim hay đường phèn... Có biết làm thì món yến sào quý giá kia mới trở nên ngon và bổ, xứng đáng là một món ăn đắt tiền nhứt mà xưa nay vua chúa cũng như những người mắc phải bịnh nặng hay những người muốn tẩm bổ cho thân thể khỏe mạnh và cường tráng... hay hơn nữa để đông con. Cũng như Tần Thủy Hoàng có trên 3000 cung nữ, và đã lấy món yến thay cơm hàng ngày; hay như vua Minh Mạng nước Việt Nam cũng lấy món yến làm món ăn thường nhựt, nên đã có tới 75 hoàng tử và 83 công chúa. Trùng thảo Quảng Tây là gì? Theo người dân vùng núi tỉnh Vân Nam thì đó là một thứ rễ cây tự nhiên biến đổi thành con sâu và sâu ấy có chất bổ đặc biệt. Ăn nó sẽ trừ được bá bịnh, nhứt là về lao lực. Nhưng có người lại cho rằng đó là hình con sâu sống ở trên loại cây bổ như cây nhân sâm trên rừng hay cây tam thất. Vì ăn nhiều chất bổ của hai loại thảo mộc ấy nên tự nhiên biến thể vào thành ra rễ cây giống như rễ cây sâm hay rễ cây tam thất. Nhưng lại có thuyết cho rằng trùng thảo là một con tằm dại sống trên một vài cây thuộc loại nhân sâm, nhứt là cây đinh lăng rừng. Khi thời tiết đổi thay bất thường, có nhiều con sâu bị một thứ nấm tống cú xuất hiện, mọc trên đầu, trên cổ, dưới phía đuôi. Trước còn nhỏ, ngắn; sau dần mọc dài ra, con tằm dại ấy bị cây hút hết thịt rồi ít lâu chết lăn xuống đất. Trong giới lương y, người ta vào rừng nhặt các sâu ấy đem về sao tẩm thành một môn thuốc bổ và chữa những chứng nan y có công hiệu. Món ăn trùng thảo khó tìm được, vì họa có năm tằm dại bị nấm ăn mới có, nên rất đắt tiền. Già trẻ trai gái đều ăn món trùng thảo được. Người ta thường bắt sâu tươi về phơi khô để dành hoặc làm món ăn. Họ nấu với vi yến hoặc đem chiên giòn với mỡ gà trống thiến. Còn món trúc sáng Vân Nam thì làm bằng màng mỏng ở trong giống cây trúc rừng. Người ta cho rằng những khóm trúc nào đã mọc được 100 năm bên bờ suối thì mới có trúc sáng. Nhưng theo những nhà bác học thì trúc sáng không phải là màng mỏng ruột cây trúc mà là một thứ nấm mọc ở gốc cây tre, cây trúc. Nấm này hình dài, mỏng như lụa, có trổ nhiều lỗ như màng nhện. Nếu ta thả vào chậu nước nóng ma xem thì thấy rõ hình cây nấm. Chân nấm dày, mình mỏng, lỗ hoa to lớn, đầu như chụp nón mỏng. Theo sách Đông y, người Trung Hoa biết lấy nấm trúc sáng để làm thuốc giải độc, lọc máu và nhuận trường từ thời xa xưa. Cũng như các vị thuốc quý, ngày nay trúc sáng đã thành món ăn ngon và bổ. Tục truyền rằng ngày xưa, hoàng hậu và cung phi cưng của Tần Thủy Hoàng hàng ngày ăn canh trúc sáng để cho da mặt được tươi đẹp.

bát trân trung quốc